Du lịch đã có mầm mống
từ đầu thời kỳ xã hội nô lệ, nó gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội
lần thứ ba. Sự ra đời và phát triển của thương nghiệp đã thúc đẩy quá trình đi
lại buôn bán giữa các nước trên thế giới.
Thời cổ đại, nền văn
minh được hình thành sớm tại Ai Cập, Bâbilon (nay là vùng Irắc - Iran), An Độ,
Trung Hoa, Hy Lạp và La Mã, (Italy ngày nay)... Người dân các vùng vãn minh cổ
đại này đã có quá trình giao lưu kinh tế và vãn hoá rộng rãi. Nhu cầu tìm hiểu,
tham quan, nghỉ ngơi đã xuất hiện trước hết ở tầng lớp quý tộc, chủ nô, sau đố
là các thương gia, các nhà tu hành, nhà khoa học.
Với sự phát minh tiền tệ
và sự phát triển thương mại vào khoảng 4000 năm trước công nguyên (TCN), hoạt động
buôn bán thông qua tiền tệ đã đánh dấu sự bắt đẩu kỷ nguyên mới của những cuộc
du hành.
Vào đầu năm 2700 TCN,
Các ngôi mộ hình kim tự tháp và các công trình tôn giáo được xây dựng tại Ai Cập.
Các kỳ quan nổi tiếng thế giới này đã ừở thành nơi thu hút khách từ nhiều nước.
Dân cư các nước Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc... đã thực hiện những cuộc hành trình
tới các nơi có các kỳ quan nổi tiếng đó để thoả mãn sự tò mò, hiếu kỳ, nghiên cứu
học hỏi hoặc để cầu nguyện. Những chuyến đi đó kéo dài nhiều ngày, thậm chí nhiều
tháng, nhiều năm và cách xa nơi ở thường xuyên của họ. Vào thời gian đó, chưa
có cơ sờ kinh doanh lưu trú, ăn uống. Những người đi tham quan hoặc hành hương
thường ngủ ngoài trời và mang theo các thức ăn, đồ uống. Để kỷ niệm chuyến đi,
họ thường khắc tên mình lên các tảng đá mềm hoặc trên các bức tranh vẽ các kỳ
quan đó và mua các đồ lưu niệm.
Hoạt động vận chuyển và
kinh doanh cùng với việc phát minh ra bánh xe và phát triển mạng lưới giao
thông cũng được coi là mốc I quan trọng đánh dấu sự hình thành ngành vận chuyển
nói riêng, du lịch nói chung.
Vào khoảng năm 2000 đến
1500 trước công nguyên, hệ thống ,a I đường giao thông tại Ai Cập được phát triển
nhanh, các tuyến an I đường được kéo dài đến nhiều khu vực, mặt đường được mở rộng
I đảm bảo cho việc xe đi lại hai chiều, hệ thống cầu cống được xây Ịp ị dựng...
đã thúc đẩy việc đi lại buôn bán, tham quan, hành hương... Vào thời gian
này, có 3 nhóm khách du lịch chủ yếu: các công chức, các sĩ quan quần đội và những
người hành hương.
Tiếp đó, sự xuất hiện
ngành công nghiệp đóng tàu đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các chuyến
đi lại buôn bán hoặc khám I phá bằng đường biển. Vào năm 1480 TCN, có các chuyến
du thuyền được tổ chức từ Ai Cập vì mục đích hòa bình và cú chuyến va0 du lịch
do nữ hoàng Hatsheput thực hiện tới vùng đất cực đông của t>an Châu Phi.
Theo những miêu tả được ghi trên tường của đền thờ Deit ĩng E1 Bahari ở Luxor,
vào năm 1490 TCN, vua Ai Cập đã tổ chức một chuyến đi vì mục đích du lịch đến
vùng đất thuộc đất nước Somali các ngày nay.
Việc phát triển hệ thống
giao thông thường gắn liền với quá trình đô thị hoá và phát triển thương mại.
Vào năm 326 TCN, vua Qjjg Ai Cập đã phát hiện ra các con đường được xây dựng
khá tốt vào khoảng thời gian 500 đến 400 năm TCN tại Ân Độ và Iran. Các con I
đường đó nối liền các thành phố tới thủ đô các nước đó.
Vào những năm 150 TCN,
người La Mã đã bắt đầu xây dựng những con đường rất nổi tiếng với chiều dài tổng
cộng khoảng 50.0 dặm. Hệ thống đường giao thông tại La Mã vào thời kỳ đó đã
phát triển tới gần Scotland và Đức ở phía Bắc, giáp Ai Cập và dọc theo bờ biển
phía Nam Biển Địa Trung Hải tới vịnh Pecxich ở phía Đông (Irắc và Cô Oét hiện
nay).
Nhờ có hệ giao thông
đó, Người La Mã có thể đi lại bằng ngựa khoảng 100 dặm trong mỗi ngày để đến
tham quan các ngôi đền nổi tiêng tại khu vực Địa Trung Hải, đặc biệt là các Kim
Tự Tháp và các di tích tại Ai Cập, Hy Lạp và các nước Tiểu Á.
Tiếp đó, con đường tơ lụa
xuất hiện nối các nước ở phía Đông và Tây xuất phát từ nhu cầu phát triển buôn
bán giữa các nước Châu Âu và Á. Năm 1271, Marco Polo, một nhà thám hiểm người
Italia đã từ Venise đi tới Trung Quốc và nhiều nước khác ở phương Đông. Ông
cũng đã từng đặt chân lên thương cảng Đại Chiêm (nay là Hội An - Quảng Nam, Việt
Nam). Ông trở về châu Âu năm 1292 và viết cuốn “Marco Polo du ký”. Cuốn sách đó
được coi như một minh chúng cho ông là người đầu tiên của Phương Tây khám phá
ra con đường tơ lụa. Thực ra, đường tơ lụa không phải là một con đường cụ thể
được xây dựng. Nó là tuyến đường mòn được các nhà buôn Đông và Tây đi lại bằng
lạc đà là chủ yếu để trao đổi các loại hàng hoá, trong đó có mặt hàng nổi tiếng
nhất là tơ lụa. Việc hình thành nên con đường tơ lụa đó đã góp phần rất lớn vào
việc phát triển nhũng dòng khách du lịch là những nhà kinh doanh từ Tây sang
Đông và ngược lại.
Từ khoảng năm 2000 TCN
đến nãm 500 sau CN, vùng Địa Trung Hải có cuộc cách mạng đáng ghi nhận trong
lĩnh vực du lịch. Vào thòi giãn đó, sự đi lại giữa các nước khá phát triển với
các mục đích khác nhau như: kinh doanh, tôn giáo, lễ hội, học tập tham quan...
Năm 776 TCN, thế vận hội
Olympic đầu tiên đã diễn ra tại Hy Lạp với chu kỳ 4 năm một lần. Mặc dù thế vận
hội ấy chỉ bao gồm các quốc gia, vùng lãnh thổ trong vùng Địa Trung Hải tham dự
nhưng đã có rất nhiểu đoàn vận động viên và cổ động viên tói Hy Lạp. Để đáp ứng
nhu cầu của các vận động viên, cổ động viên trong khoảng thời gian họ sống xa
nhà, các nhà trọ và nhà hàng đã được hình thành để cung cấp các lều trại, dịch
vụ ăn uống, tắm gội, thay quần áo, giữ đồ đạc, cho du khách.... Từ đó, loại
hình du lịch thể thao, công vụ, tham quan, nghiên cứu bắt đầu xuất hiện.
Vào thế kỷ thứ V và thế
kỷ thứ IV TCN, ngoài khách du lịch còn có các thương nhân thường tìm đến các lễ
hội. Hơn nữa, vùng đất dọc Địa Trung Hải đã thực hiện cuộc cách mạng lớn về
thương mại. Các chuyến đi với mục đích buôn bán, tôn giáo, lễ hội,... đã phát
triển rất sớm. Người đi du lịch lúc đó mục đích chủ yếu là buôn bán, giải trí,
tham gia lễ hội và túi ngưỡng; chỉ một bộ phận nhỏ đi du lịch với lý do để khám
phá. Các nơi tín ngưỡng thường nằm tại các khu vực có cảnh quan đẹp, không khí
trong lành, cố sông hồ hoặc là suối nước nóng. Tại một số nơi tín ngưỡng, thường
có các điểm ăn uống, các tiện nghi thư giãn, sân vận động, nhà hát,..,.
Người dân La Mã thời cổ
đi du lịch rất nhiều. Trong các chuyến du lịch, họ sử dụng sách hướng dẫn, để lại
các dấu ấn kỷ niệm ở mọi nơi họ đến và mua đồ lưu .niệm. Một người Hy Lạp đã viết
cuốn sách “Hướng dẫn về Hy Lạp” vào khoảng năm 160 - 180 sau CN. Đây là cuốn cổ
nhất viết vể du lịch hiện còn tồn tại. Sự ra đời của cuốn sách này đánh dấu mốc
quan trọng trong lịch sử phát triển của du lịch.
Cuối thế kỷ XV, đầu thế
kỷ XVI, khoa học tự nhiên, đặc biệt là khoa học vể toán học, vật lý, hóa học, địa
lý, thiên văn, hải dương học,... tại Châu Âu rất phát triển. Nhờ có kiến thức
sâu rộng về tự nhiên, từ 1492 đến 1504, Christophe Colombo - nhà hàng hải Bồ
Đào Nha đã tiên hành 4 cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới đó là
châu Mỹ. Sau đó, Vasco de Gama người Bồ Đào Nha bằng đường biển đã tìm đến vùng
đất Châu Phi, sau đó vòng đến Ân Độ.
Tiếp theo, Magenllan đã
thực hiện thành công cuộc hành trình đi vòng quanh thế giới bằng đường biển. Từ
năm 1768 đến 1779, đoàn thám hiểm do Joseph Cook làm thuyền trưởng đã 3 lần thực
hiện các hành trình vòng quanh trái đất để thực hiện các nghiên cứu về hàng hải,
hệ động thực vật và địa chất.
Tại một số nước châu Á,
các chuyến đi lại bằng đường biển cũng xuất hiện khá sớm, điển hình là Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, thời Nhà Ngô, Viột, Tề, Tiên Tần và Đường đã thực hiện các chuyến
vượt biển đến các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Indônêxia, Thái Lan... để
buôn bán, nghiên cứu, phát triển quan hệ bang giao.... Các chuyến đi xuyên các
châu lục đó đã mở hướng khám phá và đặt nển móng cho hoạt động lữ hành quốc tế.
Vào thế kỷ XVII và thế
kỷ XVIII, các hoạt động ngoại giao, kinh doanh, đặc biệt là nhu cầu học tập
nâng cao hiểu biết phát triển mạnh tại các nước phát triển ở châu Âu. Nhiều gia
đình quý tộc đã tham gia các tour du lịch dài tới 3 năm đến các thành phố nổi
tiếng của Châu Âu để nâng cao hiểu biết của họ. Các hành trình đó được gọi là
Grand Tour. Một trong những khía cạnh quan trọng của Grand Tour là nó được tổ
chức thường xuyên với nhiều loại chương trình khác nhau. Nhưng chương trình được
nhiều người lựa chọn nhất là: Khách du lịch đi đến Pháp và ở tại đó (chủ yếu là
ở thủ đô Pari) vói thời gian dài nhất; tiếp đó, họ ở tại nước Ý với khoảng thời
gian 1 năm, chủ yếu tại các thành phô' Genoa, Milan, Florence, Rome và Venice;
sau đó ừên đường về ghé qua Đức và Thuỵ Sĩ.
Đến thế kỷ XVIII, du lịch
sức khỏe trở nên quan trọng. Những người giàu có ở châu Âu bắt đầu đi đến các
vùng có nước khoáng để hưởng các dịch vụ ngâm tắm, nghỉ dưỡng và uống nước
khoáng... với mục đích phục hồi sức khoẻ.
Đến giữa thế kỷ XVIII,
vào đầu thời kỳ của xã hội tư bản, du lịch “về với thiên nhiên” phát triển và
trở thành mốt của giới quý tộc,gia đình giàu có cũng như giới văn nghệ sĩ thời
bấy giờ. Du lịch khám phá chinh phục đỉnh núi Anpơ được bắt đầu bằng các khách
du lịch người Anh, sau đó trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều khách du lịch
ưa mạo hiểm từ châu Âu.
Cuối thế kỷ XVIII, nước
biển đã được phát hiện là một phương thuốc phục hồi sức khỏe rất tốt, ngày càng
nổi tiếng. Vì vậy, tại rất nhiều vùng biển, các làng đánh cá nhỏ được phát triển
thành các khu nghỉ dưỡng ven biển.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành du lịch Việt Nam, du lịch
là gì