1.
Về thị trường khách
Du lịch Việt Nam chú trọng
phát triển cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
-
Về thị trường khách quốc tế:
Lượng khách quốc tế đến
Việt Nam đang có xu hướng tăng với tốc độ cao. Năm 2004, khách quốc tế đến Việt
Nam đạt 2,93 triệu lượt và năm 2005 đạt gần 3,468 triệu lượt, tãng 18,4% so với
năm 2004 (Biểu đồ 1.4). Khách quốc tế đến Việt Nam phù hợp với quy luật chung của
thế giới, đó là khách từ các thị trường gần chiếm tỷ trọng cao hơn các thị trường
xa. Đặc biệt, khách quốc tế từ các thị trường gần như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Malaysia,Philippiness tăng với tốc độ cao trong mấy năm gần đây.
Năm 2004, các thị trường
khách quốc tế chủ yếu của Việt Nam gồm: Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc,
Pháp, Đức,...
-
về thị trường khách nội địa:
Khách du lịch nội địa
đã tăng gần 9,7 lần, với số lượt khách tăng từ 1,5 triệu lượt vấo năm 1990 lên
14,5 triệu lượt vào năm 2004. Đây là mức tăng trưởng khá cao so với các nước
trong khu vực và thế giới. Nhịp độ tăng trưỏng khách nội địa không đồng đều giữa
các năm (thấp nhất là 2,6% năm 2001 và cao nhất là 30,8% năm 1997). Đối vói
khách nội địa, ngoài mục đích tham quan các di tích văn hóa, lịch sử và danh
lam thắng cảnh, tỷ lệ khách đi nghỉ dưỡng tại các khu du lịch biển và núi vào
thời gian hè chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng tăng nhanh
2.Về
thu nhập
Nhờ số lượng khách quốc
tế và nội địa tăng nhanh, thu nhập từ du lịch liên tục tăng. Đến năm 2004, thu
nhập xã hội từ du lịch đạt 27.0 tỷ đồng (tương đương 1,8 tỷ USD), tăng gấp 31,7
lần so với con số 850 tỷ đồng năm 1990.
3.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật
Cùng vói sự phát triển
nhanh về số lượng khách quốc tế và nội địa, cơ sở hạ tầng du lịch đã không ngừng
được mở rộng, phát triển cả về mặt lượng và chất.
Với sự phát triển nhanh
của hệ thống cảng hàng không, cảng biển và mạng lưới giao thông đối nội và đối
ngoại, dịch vụ vận chuyển hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt
và đường bộ có bước phát triển ngày càng thuận lợi đối với sự phát triển du lịch
Việt Nam. Trong thời gian qua, khách quốc tế đến Việt Nam bằng đường hàng không
hầu hết qua 2 cửa khẩu quốc tế chính là Tân Sơn Nhất (TP. Hồ Chí Minh) và Nội
Bài (Hà Nội); chỉ một bộ phận nhỏ qua cửa khẩu quốc tế Đà Nẵng. Khách quốc tế
tàu biển đến Việt Nam qua các cửa khẩu quốc tế Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẩng,
Nha Trang, Quy Nhơn, Thừa Thiên Huế, TP. Hồ Chí Minh. Khách quốc tế đường bộ chủ
yếu qua các cửa khẩu quốc tế ở biên giới phía Bắc và phía Nam, một bộ phận nhỏ
qua các cửa khẩu quốc tế miền Trung (Lao Bảo - Quảng Trị Cầu Treo - Hà Tĩnh).
Thị phần khách quốc tế đi bằng đường sắt qua Cửa khẩu quốc tế Lạng Sơn, Lào Cai
chiếm tỷ lệ nhỏ.
Riêng về lĩnh vực khách
sạn, năm 2004, có 5.847 cơ sở lưu trú với 122.144 buồng, trong đó số cơ sở được
xếp hạng 1-5 sao đã tăng lên 2.599 cơ sở.
Mạng lưới cơ sở lưu trú
tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn và các trung tâm du lịch. Đặc biệt, với
sự phát triển nhanh của nhu cầu du lịch nội địa, các cơ sở lưu trú phát triển mạnh
tại các nơi có các bãi biển đẹp dọc duyên hải Nam Trung bộ.
Bên cạnh ngành kinh
doanh lưu trú, ngành kinh doanh lữ hành (kể cả quốc tế và nội địa) cũng phát
triển liên tục, đặc biệt số đơn vị kinh doanh lữ hành đã tăng nhanh sau năm
2000 khi có quy định mới về thành lập doanh nghiệp. Theo báo cáo của Tổng cục
Du lịch Việt Nam, tính đến cuối năm 2004, cả nước có khoảng 329 doanh nghiệp lữ
hành quốc tế và 3.000 doanh nghiệp lữ hành nội địa.
Hệ thống nhà hàng, các
cửa hàng, khu vui chơi giải trí, khu du lịch tổng hợp... phục vụ khách du lịch
cũng phát triển nhanh trong những năm gần đây cả về số cơ sở kinh doanh, địa
bàn hoạt động, cơ cấu loại hình và chất lượng.
4.
Về nguồn nhân lực du lịch
Cùng với sự tăng nhanh
về sô' khách, buồng giường khách sạn và các dịch vụ du lịch khác, lao động
ngành du lịch có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Năm 2000, số
lao động trực tiếp đã tăng lên đến 150.000 người, tăng gấp 2,5 lần so với năm
1995. Đến năm 2004, có gần 230.000 lao động trực tiếp làm việc trong ngành du lịch.
Nếu tính cả lao động gián tiếp, có khoảng 550.000 lao động thường xuyên tham
gia cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch trong năm 2004. Ngoài ra, lượng lao
động thời, vụ khá cao nhưng chưa được thống kê đầy đủ.
Lao động làm việc trong
ngành du lịch phần lớn là trẻ. Cơ cấu lao động theo giới tính phụ thuộc vào
ngành nghề, nhưng nhìn chung, tỷ lệ nữ cao hơn nam, đặc biệt là trong lĩnh vực
khách sạn và nhà hàng. Riêng đối với ngành hướng dẫn viên, tỷ lệ lao động nam
cao hơn khá nhiều so với nữ (chiếm hơn 67%).
Hệ thống mạng lưới đào
tạo du lịch đang được mở rộng để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Theo báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 1990, cả nước chỉ có 3 cơ sở
đào tạo bậc Đại học du lịch và 3 cơ sở đào tạo bậc Trung học và dạy Nghề du lịch
với số lượng học sinh tương ứng là 270 và 3.500 học sinh. Đến nãm 2004, đã có
40 trường Đại học có khoa du lịch hoặc tổ bộ môn chuyên ngành du lịch, 01 Trường
Cao đẳng Du lịch và 12 trường Cao đẳng có chuyên ngành du lịch, 16 Trường Trung
học chuyên nghiệp và Trung tâm dạy nghề du lịch. Số lượng học sinh tương ứng ở
các bậc đào tạo hàng năm là 3.600 học sinh Đại học; 1.300 học sinh Cao đẳng và
16.000 học sinh Trung học và Nghề. Quy mổ và ngành nghề đào tạo đã có bước phát
triển nhanh nhưng cơ cấu đào tạo theo bậc chưa cân đối, chưa phù hợp với nhu cầu
lao động trong ngành du lịch, tỷ lệ lao động bậc cao đẳng, trung học và nghề
còn quá thấp.
Các ngành nghề đào tạo
bậc Đại học Du lịch chủ yếu là Kinh tế du lịch, Quản trị Kinh doanh Du lịch, hướng
dẫn Du lịch, văn hóa Du lịch, Địa lý Du lịch... Đến nay cả nước chưa có ngành
đào tạo chuyên sâu về quản lý khách sạn, đào tạo giám đốc khách sạn, mậc dù nhu
cầu của các doanh nghiệp và loại lao động này khá cao nhưng chưa được đáp ứng.
Đọc thêm tại:
Đọc thêm tại: